Tổ chức Hội Thánh Cao Đài Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh

Đạo Cao Đài là một tôn giáo có phân cấp: Chức Sắc tức hàng phẩm tu sĩ trong đạo Cao Đài, Chức Việc tức hàng phẩm nửa đời nửa đạo, Đạo Hữu tức tín đồ giữ đạo.

Cơ cấu tổ chức của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh chia thành 4 Hội Thánh hữu hình, bao gồm:

  • Hội Thánh Hiệp Thiên Đài: Các phẩm chức sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm Truyền Trạng trở lên.
  • Hội Thánh Cửu Trùng Đài: Các phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài từ bậc Giáo Hữu trở lên.
  • Hội Thánh Phước Thiện: Các phẩm chức sắc cơ quan Phước Thiện từ bậc Chí Thiện trở lên
  • Hội Thánh Hàm Phong: Các vị chức sắc thuộc các Hội Thánh nêu trên, khi đến tuổi 60 về hưu thì sẽ được đưa vào Hội Thánh Hàm Phong. Dù không trực tiếp tham gia hành chánh Đạo, nhưng nếu có thể đóng góp trong quá trình an dưỡng và có công trạng đặc biệt vẫn sẽ được xét để thăng phẩm vị.

Hiệp Thiên Đài

Tập tin:4511585751 75ff943059 z.jpgVăn phòng Hiệp Thiên Đài tại nội ô Tòa Thánh Tây Ninh.

Trong vũ trụ quan của tín đồ Tòa Thánh Tây Ninh, Hiệp Thiên Đài là nơi hội hiệp của con người hữu hình với Đức Chí Tôn và các đấng vô hình thông qua cơ bút. Do đặc tính này, Hiệp Thiên Đài còn làm nhiệm vụ tư pháp và lập pháp trong tôn giáo. Ngay cả chức phẩm Giáo tông được quy định là Anh Cả của các tín đồ vẫn phải cầu cơ bút ban luật tại Hiệp Thiên Đài.

Về mặt nhân sự, nguyên thủy các chức phẩm cao cấp nhất của Hiệp Thiên Đài được hình thành từ các chức sắc phò cơ của Hội Thánh thời kỳ đầu tiên, bấy giờ chưa cho tên gọi chính thức. Những chức sắc bấy giờ là các ông Trần Duy Nghĩa, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Trương Văn Tràng, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang.

Mãi đến ngày 12 tháng 1 năm Đinh Mão (tức ngày 13 tháng 2 năm 1927), các chức phẩm Hiệp Thiên Đài mới được thành lập và quy định rõ. Hiệp Thiên Đài do chức phẩm Hộ Pháp làm Chưởng Quản và cũng là chủ chi Pháp. Bên cạnh Hộ Pháp là các chức phẩm Thượng Phẩm, chủ chi Đạo và Thượng Sanh, chủ chi Thế.

Trong lịch sử tồn tại của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, các chức phẩm Hộ Pháp được phong cho ông Phạm Công Tắc, Thượng Phẩm cho ông Cao Quỳnh Cư và Thượng Sanh cho ông Cao Hoài Sang, đều được phong năm 1926. Sau khi 3 ông liễu đạo, không ai được thọ phong vào các chức phẩm này nữa.

Dưới Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh là các chức phẩm Thập Nhị Thời Quân, gồm có Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp (thuộc chi Pháp), Bảo Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo và Tiếp Đạo (thuộc chi Đạo), Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế (thuộc chi Thế). Trong lịch sử của Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, ghi nhận 13 vị được phong chức phẩm Thời Quân. Mười hai người đầu tiên được phong vào ngày 13 tháng 2 năm 1927, đứng đầu là Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, cuối cùng là Tiếp Đạo Cao Đức Trọng. Vị Thời Quân thứ 13 là Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa được phong vào 15 tháng 2 năm 1954, thay vị cho Bảo Đạo Ca Minh Chương đã liễu đạo từ năm 1928.

Từ năm 1930, có thêm các chức phẩm Thập Nhị Bảo Quân thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài giữ chức năng Hàn Lâm Viện, tuy nhiên chỉ mới phong cho 6 vị gồm:

  • Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, phong năm 1930.
  • Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, phong năm 1930.
  • Bảo Cô Quân Dương Văn Giáo, phong năm 1930.
  • Bảo Học Quân Nguyễn Văn Lộc, phong năm 1972.
  • Bảo Y Quân Trương Kế An, phong năm 1972.
  • Bảo Nông Quân Đặng Văn Dắn , phong năm 1972.

Dưới Thập Nhị Thời Quân còn có Chức Sắc Hiệp Thiên Đài gồm có Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, Chưởng Ấn, Cải Trạng, Giám Đạo, Thừa Sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải và Luật Sự làm việc tại Bộ Pháp Chánh lo phần hỗ trợ thi hành tư pháp đạo.

Ngoài ra, còn có Hộ Đàn Pháp Quân, Hữu Phan Quân, Tả Phan Quân lo việc nghi lễ trong Đàn cúng.

Sau khi chư vị Thời Quân đều tại thế, người đứng đầu Hiệp Thiên ĐàiCải Trạng Lê Minh Khuyên - Phó Chưởng Quản đặc trách pháp luật Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Ngày Cải Trạng cũng đã quy vị 25 tháng 8 năm Ất Mùi (dương lịch 7 tháng 10 năm 2015). Hiện vị trí này đang khuyết vị.

Dưới quyền quản lý của Hiệp Thiên Đài còn có:

  • Bộ Pháp Chánh: Nguyên thủy gọi là Tòa Đạo gồm Luật Sự đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, được xem là Cơ quan Tư pháp Trung ương cao nhất của Hội Thánh, quản lý luật pháp, tổ chức các phiên Tòa để xử trị chức sắc, chức việc hay tín đồ vi phạm luật đạo, do một vị Thời Quân chi Pháp làm Chưởng Quản.
  • Cơ Quan Phước Thiện: là cơ quan tổ chức các hoạt động từ thiện kết hợp truyền đạo, do một vị Thời Quân chi Đạo làm Thống Quản. Sau này, Cơ Quan Phước Thiện phát triển lớn mạnh có đủ Cửu Viện, có mặt khắp các địa phương có đạo Cao Đài, cũng như các cơ quan dưới quyền khác và hệ thống giáo phẩm được thiết lập đầy đủ nên được Hộ pháp Phạm Công Tắc nâng lên thành Hội Thánh Phước Thiện.
  • Ban Thế đạo: là tổ chức dành cho các bậc nhân sĩ trí thức muốn vào đạo Cao Đài, do một Thời Quân chi Thế làm Chưởng Quản.
  • Đại Đạo Thanh niên hội: là tổ chức chuyên quy tụ, giáo dục văn hóa đạo đức và huấn luyện về nhiều phương diện con em tín đồ, do một vị Thời Quân chi Thế làm Chưởng Quản.
  • Tịnh thất: là các nơi tu tập về phần Bí Pháp của Cao Đài, gồm Trí Huệ Cung (thuộc Thiên Hỷ Động, dành riêng cho nữ tín đồ), Trí Giác Cung (thuộc Địa Linh Động, dành chung cho cả nam nữ tín đồ) và Vạn Pháp Cung (thuộc Nhơn Hòa Động, dành riêng cho nam tín đồ). Tịnh thất được đặt dưới quyền một vị Thời Quân chi Đạo làm Thống Quản.

Cửu Trùng Đài

Tập tin:1333555782 7045293475 daa6e1e772.jpgNam Đầu Sư Đường nằm trong Nội ô Tòa Thánh Tây Ninh, đây là văn phòng trung ương của Hội Thánh Cửu Trùng Đài.

Theo quan niệm của tín đồ Tòa Thánh Tây Ninh, Cửu Trùng Đài tượng trưng cho thân xác con người, về phần đạo chính là cơ quan hành pháp.

Hội Thánh Cửu Trùng Đài là cơ quan đầu tiên được thành lập của Hội Thánh Cao Đài, được giao nhiệm vụ hành chánh đạo. Tuy nhiên, do việc nhiều chức sắc cao cấp của Cửu Trùng Đài ly khai, nhất là từ khi Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt Lê Văn Trung liễu đạo, nhân sự chức sắc Cửu Trùng Đài bị thiếu hụt, chức sắc Hiệp Thiên Đài kiêm luôn quyền điều hành nền đạo. Vì vậy, từ sau năm 1934 đến năm 1979, các chức vị Cửu Trùng Đài chỉ còn chức năng hành đạo.

Về cơ bản, giáo phẩm Cửu Trùng Đài phân ra 9 cấp. Tuy nhiên, 2 chức phẩm cao cấp nhất của Cửu Trùng Đài là Giáo tông và Chưởng Pháp chỉ do nam giới đảm nhiệm. Bảy cấp còn lại phân thành lưỡng phái nam và nữ.

Giáo Tông

Chức phẩm cao cấp nhất của Cửu Trùng Đài là Giáo tông, được xem là ngôi vị Anh cả của toàn thể tín đồ Cao Đài. Người giữ ngôi vị Giáo tông mặc đạo phục toàn trắng với kiểu dáng thiết kế đặc biệt. Chức phẩm này được phong cho ông Ngô Văn Chiêu trước lễ khai đạo, nhưng ông đã từ chối và gửi trả lại bộ đạo phục Giáo tông. Bộ đạo phục này ngày nay vẫn còn được trưng bày tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Ngôi vị Giáo tông sau đó được xem là giao cho vị tiên vô hình là Lý Thái Bạch chấp chưởng. Vì vậy, các tín đồ Cao Đài còn gọi ông là "Lý Giáo tông". Mãi đến năm 1930, Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) mới được phong làm Quyền Giáo tông, tức là nắm nửa quyền hành của chức Giáo Tông. Sau khi ông liễu đạo năm 1934, vị trí của ông bị bỏ trống cho đến ngày nay.

Các chức phẩm Nam phái

Ở Nam phái, các tín đồ chia làm 3 phái với 3 đạo phục đặc trưng: Phái Thái (đạo phục màu vàng, tượng trưng cho Phật giáo), Phái Thượng (đạo phục màu xanh da trời, tượng trưng cho Lão giáo), Phái Ngọc (đạo phục màu đỏ, tượng trưng cho Khổng giáo).

Các tín đồ đang hành lễ tại Tòa Thánh Tây Ninh. Chú ý các đạo phục phân biệt của các chức phẩm.

Đứng đầu mỗi phái là 3 ngôi vị Chưởng pháp. Các vị Chưởng pháp mặc đạo phục theo màu của phái mình, riêng Thượng Chưởng pháp mặc đạo phục toàn trắng, với ý nghĩa thế quyền Giáo tông khi Giáo tông vắng mặt.

Người đầu tiên và duy nhất giữ ngôi vị Thượng Chưởng pháp là ông Nguyễn Văn Tương, vốn là một nhà tu hành cao cấp của đạo Minh Sư. Sau khi quy hiệp về đạo Cao Đài, ông được phong Thượng Chưởng pháp ngày 24 tháng 7 năm Bính Dần (tức ngày 31 tháng 8 năm 1926), với đạo hiệu là Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ. Tuy nhiên, chưa đầy 4 tháng sau, ông qua đời ngày 11 tháng 12 năm 1926. Chức vị Quyền Thượng Chưởng pháp được chuyển cho ông Trần Đạo Quang, một nhà tu hành cao cấp khác của đạo Minh Sư tạm thời chấp chưởng[9]. Sau khi ông Trần Đạo Quang được phong ngôi vị Ngọc Chưởng pháp ngày 13 tháng 6 năm 1927, ngôi vị Thượng Chưởng pháp bỏ trống cho đến ngày nay.

Ngôi vị Thái Chưởng pháp được phong cho Hòa thượng Thích Từ Phong, hiệu Như Nhãn, thế danh Nguyễn Văn Tường, ngày 29 tháng 7 năm Bính Dần (tức ngày 5 tháng 9 năm 1926), với đạo hiệu Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ. Ông là một Thiền sư phái Lâm Tế và là người cho các chức sắc Cao Đài mượn chùa Gò Kén để làm nơi hành lễ Khai đạo Cao Đài. Tuy nhiên, do ông thuần túy hoạt động Phật sự trong hội "Lục Hòa Liên hiệp" và phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ, nên chức vị Thái Chưởng pháp bị thu hồi. Từ đó ngôi vị này cũng bị bỏ trống cho đến nay.

Ngôi vị Ngọc Chưởng pháp ban đầu được phong cho ông Trần Văn Thụ, cũng là một nhà tu hành cao cấp của đạo Minh Sư. Ngày 10 tháng 9 năm Bính Dần (tức ngày 16 tháng 10 năm 1926), ông được phong ngôi vị Ngọc Chưởng pháp, với đạo hiệu Nho Tông Chưởng Giáo Tuyên Ðạo Thiền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ. Ông cũng là cha vợ của vị Ngọc Đầu sư đầu tiên là Ngọc Lịch Nguyệt (Lê Văn Lịch).

Sau khi Ngọc Chưởng pháp Trần Văn Thụ qua đời giữa năm 1927, ngôi vị Ngọc Chưởng pháp được phong cho Quyền Thượng Chưởng pháp Trần Ðạo Quang. Năm 1931, ông Trần Đạo Quang hợp tác với Thái Phối sư Nguyễn Văn Ca lập phái Minh Chơn Lý, đến năm 1935 thì ông lại về Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo. Năm 1937, ông ra Đà Nẵng xây dựng Cơ quan Truyền giáo Trung Việt, tiền thân của Hội Thánh Truyền giáo Cao Đài Đà Nẵng sau này. Tuy ông ly khai khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, ngôi vị Ngọc Chưởng pháp vẫn do ông chấp chưởng cho đến ngày ông qua đời vào năm 1946. Từ đó, ngôi vị này bỏ trống cho đến ngày nay.

Theo quy chế đạo, ngôi vị Đầu sư là ngôi vị đứng thứ ba của Nam phái, gồm 3 vị, đứng đầu mỗi phái. Ba chức sắc đầu tiên được phong ngôi vị đầu sư gồm Thượng Đầu sư Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, phong ngày 11 tháng 3 năm Bính Dần (tức ngày 22 tháng 4 năm 1926); Ngọc Đầu sư Lê Văn Lịch, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, phong ngày 12 tháng 3 năm Bính Dần (tức ngày 23 tháng 4 năm 1926); và Thái Đầu sư Thích Thiện Minh, thế danh Nguyễn Văn Giáp, Thánh danh Thái Minh Tinh, được phong ngày 13 tháng 10 năm Bính Dần (tức ngày 17 tháng 11 năm 1926).

Do Hòa thượng Thích Thiện Minh cũng thiên về hoạt động trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Nam Kỳ cùng với thầy mình là Hòa thượng Thích Từ Phong, ngày 12 tháng 12 năm Bính Dần (tức ngày 15 tháng 1 năm 1927), ngôi vị Thái Đầu sư được phong cho ông Dương Văn Nương (Thánh danh Thái Nương Tinh). Ông qua đời vào cuối năm 1929.

Chỉ duy nhất các vị Đầu sư tiên khởi này mới mang tên Thánh ở cuối là Nhựt, Nguyệt, Tinh. Về sau, các tên Thánh ở cuối đều mang chữ Thanh. Các vị Đầu sư được Thiên phong về sau này gồm:

  • Quyền Đầu sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương), phong năm 1930.
  • Quyền Đầu sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang), phong năm 1930
  • Quyền Đầu sư Thái Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ), phong năm 1933
  • Đầu sư Thượng Sáng Thanh (Trần Ngọc Sáng), phong năm 1963
  • Đầu sư Thái Bộ Thanh (Nguyễn Lễ Bộ), phong năm 1973
  • Đầu sư Ngọc Nhượn Thanh (Bùi Đắc Nhượn), phong năm 1973
  • Đầu sư Thượng Tám Thanh (Nguyễn Thành Tám), phong năm 2005, hiện là Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.

Các phẩm chức sắc thấp hơn gồm Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu, Lễ sanh được quy định số lượng như sau:

  • Phối sư: 36 vị (Mỗi phái 12 vị, đứng đầu là 3 vị Chánh Phối sư)
  • Giáo sư: 72 vị (Mỗi phái 24 vị).
  • Giáo hữu: 3.000 vị. (Mỗi phái một ngàn).
  • Lễ sanh: Không định số.

Các chức phẩm Nữ phái

Nữ phái không chia phái và có đạo phục màu trắng. Quyền hành chức sắc Cửu Trùng Đài Nữ phái giống như Nam phái song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Các bậc phẩm của Nữ phái chỉ bao gồm từ Đầu sư trở xuống đến Lễ sanh; số lượng như sau:

Nữ Đầu sư là ngôi vị đứng đầu Nữ phái, được quy định có 1 vị chấp chưởng. Tuy nhiên, khi mới lập đạo không có nữ tín đồ nào giữ ngôi vị này. Người đứng đầu Nữ phái bấy giờ là bà Nữ Giáo sư Lâm Ngọc Thanh (Thánh danh Hương Thanh), sau được thăng Nữ Phối sư, rồi Nữ Chánh Phối sư. Bà là vợ thứ của Thái Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Thơ (sau được phong Quyền Thái Đầu sư, rồi Thái Đầu sư). Mãi đến khi bà qua đời được 17 ngày, bà mới được Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh truy phong làm Nữ Đầu sư đầu tiên vào ngày 25 tháng 4 năm Đinh Sửu (tức ngày 3 tháng 6 năm 1937). Tượng bà được đắp nổi tại Lôi Âm Cổ Đài của Tòa Thánh Tây Ninh.

Mãi đến ngày 20 tháng 10 năm Mậu Thân (tức ngày 9 tháng 12 năm 1968), Nữ Chánh Phối sư Nguyễn Thị Hiếu (Thánh danh Hương Hiếu) mới được phong ngôi vị Nữ Đầu Sư và là Nữ Đầu sư đầu tiên được phong chính thức khi còn sống. Bà là bạn đời của Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư. Bà từng viết quyển "Đạo Sử", được xem là một trong những tài liệu lịch sử đầu tiên của đạo Cao Đài. Bà đăng tiên ngày 11 tháng Năm (nhuận) năm Tân Hợi (tức ngày 3 tháng 7 năm 1971).

Cùng đợt phong với Nữ Đầu sư Hương Hiếu còn có một ngôi vị Nữ Đầu sư Hàm phong (ngôi vị không còn khả năng hành đạo) được phong cho bà Hồ Thị Lự, Thánh danh Hương Lự, thân mẫu của Thượng sanh Cao Hoài Sang. Bà đăng tiên ngày 22 tháng Một năm Nhâm Tý (tức ngày 27 tháng 12 năm 1972).

Năm 1999, bà Phối sư Hương Ngộ (thế danh Phạm Thị Ngộ, phó Hội trưởng Hội đồng Chưởng Quản đặc trách nữ phái) cũng được ân thăng vào phẩm Đầu sư, nhưng hành đạo chưa được nữa năm thì đăng tiên năm 2000.

Năm 2006, bà Phối sư Hương Nhìn (thế danh Huỳnh Thị Nhìn, phó Hội trưởng Hội đồng Chưởng Quản đặc trách nữ phái, sau đó là Phó Chưởng Quản Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh đặc trách nữ phái) được thăng phẩm Đầu sư, bà đăng tiên ngày 05 tháng Mười Một năm Tân Mão (dương lịch 29 tháng 11 năm 2011).

Hiện nay, đứng đầu Nữ phái Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh là Quyền Nữ Chánh Phối sư Hương Đắt (thế danh Huỳnh Kim Đắt).

Các chức phẩm của Nữ phái từ Phối sư xuống đến Lễ sanh không giới hạn số lượng chức sắc.

Cửu Viện

Cửu Trùng Đài có 9 viện trung ương điều hành nền Đạo Cao Đài từ trung ương đến địa phương là: Học viện, Y Viện, Nông Viện, Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện, Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.

  • Chánh Phối Sư phái Thái chịu trách nhiệm Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện;
  • Chánh Phối Sư phái Thượng chịu trách nhiệm Học viện, Y Viện, Nông Viện;
  • Chánh Phối Sư phái Ngọc chịu trách nhiệm Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.

Công cử nhân sự Cửu Trùng Đài

Chức Sắc Cửu Trùng Đài bắt đầu từ phẩm Lễ sanh (lựa chọn trong hàng tín đồ những người có đạo hạnh tốt). Chức sắc Cửu Trùng Đài mỗi khi cầu phong hay cầu thăng đều phải được sự thông qua của Quyền Vạn Linh (Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh, Thượng Hội) và cuối cùng phải được Cơ bút nhìn nhận tại Cung Đạo Đền Thánh.

Về sau Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh có mở thêm một số phẩm khác như: Nhân sự từ Đầu phòng văn, Lễ sĩ, Giáo nhi… là những người phục vụ theo chuyên môn và đủ thời gian quy định thì được cầu phong vào Lễ sanh. Đặc biệt là Hiền tài, chức sắc Ban Thế Đạo nếu có công nghiệp hành Đạo được cầu thăng qua Giáo hữu.

Phước Thiện

Theo Đạo Nghị Định số 48/PT lập ngày 19 tháng 10 năm Mậu Dần (tức 10 tháng 12 năm 1938), Cơ quan Phước Thiện được thành lập để lo về việc xã hội, cứu khổ, là một trong 4 cơ quan của đạo Cao Đài, trực thuộc Hiệp Thiên Đài.

Nhân sự Hội Thánh Phước Thiện gồm 12 phẩm từ dưới lên như sau:

  1. Minh Đức
  2. Tân Dân
  3. Thính Thiện
  4. Hành Thiện
  5. Giáo Thiện
  6. Chí Thiện
  7. Đạo Nhơn
  8. Chơn Nhơn
  9. Hiền Nhơn
  10. Thánh Nhơn
  11. Tiên Tử
  12. Phật tử.

Các phẩm cấp này chia làm 2 bực:

  • Bực từ Minh Đức tới Chơn Nhơn thì ở trong Cơ quan Phước Thiện, lo về phước thiện, cứu khổ ban vui.
  • Bực từ Hiền Nhơn trở lên thì qua Hiệp Thiên Đài để bảo tồn chơn pháp.

Các chức sắc Phước Thiện không có Thánh danh như Chức sắc Cửu Trùng Đài.

Hội Thánh Phước Thiện trực thuộc Chi Đạo Hiệp Thiên Đài, do một vị Thời Quân chi Đạo làm Thống Quản cả nam và nữ phái.

Hội Thánh Phước Thiện tổ chức riêng biệt theo hai phái: nam và nữ. Mỗi phái có một vị Chưởng quản phẩm Chơn Nhơn đứng đầu.

Dưới vị Chưởng quản có hai vị Phó Chưởng quản: Đệ nhứt và Đệ nhị Phó Chưởng quản.

Dưới kế đó là Cửu Viện Phước Thiện. Bên nam phái có Cửu Viện Phước Thiện nam phái, bên nữ phái có Cửu Viện PT nữ phái, tổ chức hai bên giống nhau, quyền hành riêng biệt. Tổ chức nầy giống y như tổ chức Cửu Viện của Cửu Trùng Đài, chức năng của mỗi Viện cũng giống hệt như Cửu Trùng Đài nhưng chỉ lo về Cơ quan Phước Thiện mà thôi. Mỗi Viện có một vị Thượng Thống đứng đầu.

Đó là tổ chức Phước Thiện tại trung ương.

Nơi các địa phương, hệ thống tổ chức của Hội Thánh Phước Thiện giống y như bên Hành Chánh Đạo Cửu Trùng Đài, nhưng chỉ coi về Phước Thiện mà thôi.

Hành Chánh Đạo Cửu Trùng Đài cai quản các Thánh thất, còn bên Phước Thiện thì cai quản các Điện thờ Phật Mẫu.

Dưới Cửu Viện Phước Thiện là các Trấn Đạo Phước Thiện, Châu Đạo Phước Thiện, Tộc Đạo Phước Thiện. Mỗi Tộc Đạo Phước Thiện có một Nhà Sở Phước Thiện chánh với một Bàn Cai Quản gồm 12 thành viên, có một vị đứng đầu gọi là Chủ Trưởng. Bàn Cai Quản Phước Thiện dưới quyền của vị Giáo Thiện Quản Tộc Đạo Phước Thiện, do Hội Thánh Phước Thiện bổ đến hành đạo nơi Tộc Đạo Phước Thiện này.

Dưới Bàn Cai Quản Phước Thiện là các Sở Phước Thiện về Lương điền, Công nghệ, Thương mãi., trong các Hương đạo.

Mỗi Sở Phước Thiện có một vị Chủ sở, phẩm Hành Thiện đứng đầu, có nhiều nhân viên công quả gọi là các Đạo sở.

Những vị lãnh trách nhiệm trong Hội Thánh Phước Thiện kỳ đầu tiên kể như dưới đây:

  • Chưởng quản: Hiến Đạo Phạm Văn Tươi
  1. Thượng thống Hòa Viện: Chí Thiện Võ Văn Lẽo
Phụ thống Hòa Viện: Giáo Thiện Phạm Văn Hường
  1. Thượng thống Lại Viện: Chí Thiện Lê Văn Tri
Phụ thống: khuyết
  1. Thượng thống Lễ Viện: Đạo Nhơn Trịnh Phong Cương
Quan sự: Chí Thiện Huỳnh Văn PhuôngHôn sự: Chí Thiện Trần Văn LợiTang sự: Chí Thiện Phạm Công ĐằngTế sự: Chí Thiện Phạm Văn Lễ
  1. Thượng thống Học viện: Phối Sư Ngọc Nhơn Thanh.
Phụ thống: khuyết
  1. Thượng thống Y Viện: Giáo Thiện Lê Văn Thiệt (quyền)
Phụ thống Y Viện: Giáo Thiện Nguyễn Văn Sáng
  1. Thượng thống Nông Viện: Chí Thiện Lê Văn Gấm
Phụ thống Nông Viện: Chí Thiện Phạm Duy Hoai
  1. Thượng thống Lương Viện: Chí Thiện Trịnh Văn Phận
Phụ thống: khuyết
  1. Thượng thống Công Viện: Chí Thiện Nguyễn Văn Lư
Phụ thống Công Viện: Chí Thiện Phạm Văn Út
  1. Thượng thống Hộ Viện: Chí Thiện Đỗ Văn Viện
Phụ thống Hộ Viện: Chí Thiện Lê Văn Giờ.

Ban Thế Đạo

Thể theo tinh thần Thánh Giáo của Đức LÝ GIÁO TÔNG đêm mùng 3 tháng 12 năm Quý Tỵ (1953) và theo tôn chỉ của ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh thành lập BAN THẾ ÐẠO cốt yếu mở rộng trường công quả tiếp đón những bậc nhân tài văn võ có khả năng phụng sự cho Đạo mà không thể phế Đời hành Đạo.

Chức Sắc trong Ban Thế Đạo có nhiệm vụ độ ĐỜI nâng ÐẠO và hành sự trực tiếp với Cửu Trùng Đài về mặt chuyên môn trong Xã hội, và trực thuộc Hiệp Thiên Đài "CHI THẾ" về mặt Chơn Truyền và Luật Pháp.

BAN THẾ ÐẠO gồm có 4 phẩm:

1. Hiền Tài

2. Quốc Sĩ

3. Phu tử

4. Đại Phu

Những vị nào muốn được tuyển trạch vào Ban Thế Đạo phải có 2 Vị Chức Sắc trong Đạo tiến cử và phải nhập môn cầu Đạo, khi được Hội Thánh chấp nhận vào hàng phẩm kể trên tùy địa vị ngoài Đời của đương sự.

Hàm Phong

Tập tin:Normal NoiOToaThanh03.jpgVăn phòng Hội Thánh Hàm phong.

Hội Thánh Hàm phong là một tổ chức của đạo Cao Đài gồm tất cả các chức sắc Hàm phong nam nữ.

Chức sắc Hàm phong là những Chức sắc có phẩm vị nhưng vì tuổi già sức yếu nên xin hồi hưu dưỡng lão.

Đạo Luật Mậu Dần 1938 quy định những chức sắc nam nữ nào đủ công nghiệp quá 61 tưổi mà sức khỏe yếu kém, bệnh tật, không còn khả năng hành đạo được dự sổ cầu phong Hàm Phong.

Hội Thánh Hàm Phong hoạt động theo nội quy, được Hộ pháp Phạm Công Tắc giao phó nhiệm vụ giáo hóa và kiểm tra nền Đạo.

Các cơ quan trong Đạo Cao Đài

Đạo Luật Mậu Dần (1938) bố trí 4 cơ quan trong Đạo (4 cơ quan trong chánh trị đạo).

  • Hành Chánh: là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng. Thống quản cả các hoạt động của nền chánh trị đạo. (Chương hành chánh có 17 điều).
  • Phước thiện: là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn. (Phước Thiện lấy điều 10 và 11 của Hành Chánh tạo thành).
  • Phổ tế: là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo. (thuộc điều 14 của chương Hành Chánh).
  • Tòa Đạo: là cơ quan bảo thủ Chơn Truyền, gìn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, bênh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẽ, tôn nghiêm đặc sắc.

(thuộc điều 15 của chương Hành Chánh). Tùy theo phân cấp hành chánh mà bố trí nhân sự và tổ chức các cơ quan.

Phân cấp hành chánh

Trong việc phân cấp hành chánh đạo, Đạo Cao Đài đặt ra năm cấp:

Trung ương Hội Thánh và các cơ quan trung ương điều hành nền Đạo được đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Ở địa phương có bốn cấp:

  • Trấn Đạo: gồm nhiều Châu Đạo. (Giáo sư phụ trách Khâm Trấn). Trấn Đạo tương đương 3 đến 5 tỉnh gộp lại.
  • Châu Đạo: Gồm nhiều Tộc Đạo. (Giáo Hữu phụ trách Khâm Châu). Châu Đạo tương đương 1 tỉnh.
  • Tộc Đạo: Gồm nhiều Hương Đạo (Lễ Sanh phụ trách Đầu Tộc Đạo). Tộc Đạo tương đương 1 huyện nhưng có nhiều trường hợp 1 huyện có nhiều Tộc Đạo.
  • Hương Đạo: Gồm nhiều ấp Đạo (Chánh Trị Sự phụ trách Đầu Hương Đạo). Hương Đạo tương đương 1 xã.

Tổ chức Hành Chánh Đạo tại Châu Thành Thánh Địa (trung ương) với 1 vị Giáo sư là Khâm Thành.

Trong Châu Thành Thánh Địa có các Phận Đạo. Đầu Phận Đạo là vị Lễ Sanh. Phận Đạo có nhiều Hương Đạo.

Ngoài ra, còn có Ấp Đạo có Phó Trị Sự và Thông Sự đứng đầu. Ấp Đạo tương đương 1 ấp hoặc 1 thôn, 1 làng tùy theo cách gọi từng vùng miền.

Tổ chức hành chánh ở trung ương và địa phương của Hội Thánh Phước Thiện cũng giống như Hành Chánh Đạo Cửu Trùng Đài nhưng các thay đổi tên các chức danh.

Tại Châu Thành Thánh Địa Tây Ninh (trung ương) với 1 vị Ðạo Nhơn là Quản Thành.

Ở cấp địa phương:

  • Trấn Đạo Phước Thiện: gồm nhiều Châu Đạo Phước Thiện. (Ðạo Nhơn phụ trách Quản Trấn Đạo Phước Thiện).
  • Châu Đạo Phước Thiện: Gồm nhiều Tộc Đạo Phước Thiện. (Chí Thiện phụ trách Quản Châu Đạo Phước Thiện).
  • Tộc Đạo Phước Thiện: Gồm một Bàn Cai Quản với nhiều Chủ sở và Đạo Sở (Giáo Thiện phụ trách Quản Tộc Đạo Phước Thiện).
  • Bàn Cai Quản Phước Thiện: Gồm nhiều Chủ sở và Đạo Sở (Hành Thiện là Chủ Trưởng).
  • Chủ sở và Đạo Sở: Gồm nhiều Sở lương điền, sở công nghệ, sở thương mại (Hành Thiện là Chủ Sở, Thính Thiện, Tân Dân, Minh Đức là Đạo Sở).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/dluat... http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/p/p1-072a.htm#Hie... http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/p/p1-072b.htm#Hie... http://www.caodai.vn/hoithanh/HTML/Hienchuong/Hien... http://www.caodai.vn/hoithanh/menu.html http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=56744 http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/162/0/3... http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/241/0/3... https://commons.wikimedia.org/wiki/Cao_Dai?uselang...